Loi Khuyen Day Cua Co Duc

– 383.Lời Khuyên Dạy Của Cổ Đức

Khi mới vào chùa, bút giả nghe được một truyền thuyết bao hàm ẩn ý, mà

không biết có đúng với nguyên ngữ chăng, và phát xuất từ đâu? Câu ấy là:

“Phật cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng, Phật cao nhứt trượng, ma cao quá

trượng đầu, Phật cao siêu quá trượng đầu, ma quy hàng Phat

Y nghia cau nay la  Phat cao một trượng , ma

cao khỏi đầu trượng; nếu Phật cao vượt khỏi đầu trượng

 nữa, ma sẽ quy hàng Phật.” Suy gẫm theo câu trên, người tu phải làm sao cho ông Phật của mình cao hơn con ma, nếu chẳng thế tất bị ma chướng đánh đổ. Cho nên trong làng tu, những kẻ bị thối bại không nên đổ cho hoàn cảnh, hoặc phiền trách ai, chỉ trách tại ông Phật của mình thua con ma mà thôi.

Nếu cố gắng giữ vững chí nguyện, ma chướng sẽ tiêu trừ. Vì biết trên đường tu có nhiều chướng ngại, khi xưa đức Đạt Ma Tổ Sư đã nói bốn hạnh để làm phươngchâm tiến đạo   hàng đệ tử. Bốn hạnh ấy là: Báo Oan Hạnh, Tùy Duyên Hạnh, Xứng Pháp Hạnh và Vô Sở Cầu Hạnh.

1. Sao gọi là Báo Oan Hạnh? – Chúng ta từ trước đến nay luân hồi trong sáunẻo, mỗi đời đều gây nghiệp trái hoặc ân hoặc oán, từ vi ệcnhỏ đến việc lớn,có thể nó i là vô lượng vô biên. Cho nên khi ta hành đạo, tuy nhờ công đức tutập tiêu trừ một phần nào, nhưng các nghiệp chưa tan, tất phải lần lượt đềntrả. Như người thường đau yếu hoặc tàn tật, do kiếp trước đã tạo nghiệp sátsanh. Người bị nhiều tiếng thị phi khen chê, do kiếp trước ỷ thông minh quyền thế xem rẻ người, hoặc đã tạo nghiệp hủy báng. Người bị nghèo khổ

thiếu   hụt, do kiếp trước không có lòng xót thương tu hạnh bố thí.

Người bị gông cùm tra khảo tù đày, do kiếp trước hay trói buộc, đánh đập, giam nhốt chúng sanh. Kẻ bị cô độc lẻ loi thiếu người phụ trợ, do kiếp trước khônghoan hỷ kết duyên với mọi người. Những nghiệp như thế vô lượng vô biên,

ngày nay tu hành khi bị oan trái đến, phải an lòng nhẫn nại chịu đền trả,không nên oán trách buồn phiền.

Nơi kiếp luân hồi, chúng sanh đều có ăn uống cùng gia đình đôi bạn, nên trong các nghiệp duy có nghiệp sát vànghiệp ái là nặng nhứt. Cổ đức đã than: “Bể nghiệp mênh mang, khó đoạnkhông chi hơn ái dục. Cõi trần man mác, dễ phạm duy chỉ có sát sanh!”

Bup giả từng nghe một Phật tử Bắc Việt thuật lại câu chuyện, vì lâu quá chỉnhớ phần đại kh ái, quên mất tên họ địa chỉ của người trong cuộc. Phật tử ấy nói: “Có một vị sư nguyên là thầy giáo, vì tỉnh ngộ cảnh thế phù du, nê n lên

tịnh tu trên núi. Trải một thời gian, vị sư được chư thần mách bảo rằng:

Ông có duyên nợ mười chín năm với một cô tên họ là thế, nay tuy đã tu hành không nên kết duyên chồng vợ, nhưng phải xuống núi dạy dỗ giác ngộ cô kia, trả xong mối nợ tiền khiên đúngnhư thời hạn ấy, rồi trở lên núi tu hành mới có thể thành công.

Vị sư y lời xuống núi, quả nhiên gặp một cô tên họ đúng như chư thần đã bảo, cảm mến đeo đuổi. Sư khuyên nhủ dạy đạo chocô, trả xong y theo thời hạn rồi lên núi. Lúc lâm biệt cô ấy vẫn còn quyến luyến khóc lóc.” Đây là sự trả nợ nần về nghiệp ái.

Nơi truyệ n Quần Tiên, nhân tiết trung thu chàng văn sĩ Vân Tiêu lên núi chơi. Trong đêm rằm, chàng mục kích chư tiên nương mây cởi hạt giáng xuống một tòa thạch bàn, bày tiệc trái ngon rượu quí, vừa đàn ngâm hát rằng:

Đêm thu một khắc một chầy

Vang trang  khéo  rọi cảnh này sơn âm!

Nghiêng bầu hỏi bạn đồng tam

Hằng Nga khuất bóng biết tìm  nơi đâu?

Bên tiên nữ có một nàng tên là Thái Loan, sắc đẹp dịu dàng, ca ngâm haynhất, làm cho Vân Tiêu tuy ẩn bóng rình nghe, cũng bàng hoàng xúc động.

Giây lát sau, một vị lão tiên uống rượu xong, ca rằng:

Hữu duyên tương hội tại tiên đàn

Ưng đắc Vân Tiêu giá Thái Loan!

Nghe hai câu ấy, Vân Tiêu phải chường mặt ra dự vào đàn tiên. Chư tiên bảo

Thái Loan tiên nữ còn trần duyên với Vân Tiêu mười ba năm, truyền đồng tử đem sổ ra xóa bỏ tiên tịch. Và sau mười ba năm sống với Vân Tiêu, trần duyên đã mãn, Thái Loan dùng phép ẩn thân bay về non tu lại. Cho nên chư tiên vẫn còn ở trong vòng nhân duyên kiếp quả.

Về nghiệp sát, như Sư Tử tôn giả bên „An Độ và Thần Quang nhị tổ ở Trung Hoa tuy đều đắc đạo, nhưng ngày kết liểu vẫn phải an nhiên chịu chém để đền nợ mạng. Lại như ngài Mục Kiền Liên tuy đắc quả A La Hán, thần thông bậc nhất trong hàng Thanh Văn, nhưng vì muốn trả túc nghiệp,   nên để bọn hung đồ dùng đá gậy liệng đánh cho đến chết, thi hài lại bị vùi trong hầm phẩn.

Đức Phật thấy thế thương xót, sai đệ tử đem thây Ngài lên tắm rửa sạch sẽ, xoa ướp dầu thơm, rồi đem đi trà tỳ thâu lấy xá lợi. Và như thái tử nước An Tức xuất gia tu hành đắc đạo, dùng Túc Mạng Trí thấy mình còn nghiệp trái sát sanh, nên ba phen chuyển kiếp đến xứ Lạc Dương ở Trung Hoa trả nợ mạng ba lần. Kiếp sau rốt, ngài là sa môn An Thế Cao.

Cho nên trên đường tu đâu biết ai là toàn vẹn, ta không nên tự mãn mà khinhthường người. Bởi nghiệp trái của chúng sanh rất nhiều, có khi đền trả hết lớp này lại đến lớp khác. Nhiều vị xem dường rảnh rang không o an trái,nhưng chưa hẳn là kh ông có, chỉ vì chưa đến thời tiết nhân duyên đền trả đó thôi.

Muốn dứt oan khiên ta phải an nhẫn sám hối và cố gắng tu hành để diệt trừ. Thi sĩ Nguyễn Du có lẽ đã tin sâu về thuyết nghiệp báo và sự cải tạo nhân quả của nhà Phật, nên mới có câu:

Đã mang lấy nghiệp vào thân

 Cung đừng trách lẫn trời gần trời xa

Có trời mà cũng có ta…

Lời này đã được nhiều bậc thức giả công nhận.

2. Thế nào là Tùy Duyên   Day la noi canh tuy duyen an phan cua nguoi tu Canh nao  song theo canh ay Canh giau sang tuy theo canh giau sang, canh nghro hen tuy theo canh ngheo hen Canh man ro tuy theo canh man ro ,cảnh hoạn  nạn tùy theo hoạn nạn, cho đến cảnh thạnh suy, họa phước, đắc thất, thị phi… cũng đều như thế. An phận tùy duyên đây, là giàu sang mà không tự đắc kiêu căn, nghèo hèn hoạn nạn mà không buồn rầu đổi chí.

Tại sao thế? Vì tất cả cảnh thạnh suy họa phước đều như huyễn, chỉ tùy nghiệp hiện lên một thời gian rồi diệt, có chi đáng tham luyến nản buồn?

Khi xưa, đức Khổng Tử và đồ đệ bị giặc vây giữa nước Trần nước Thái, thầy trò tuyệt lương đã bảy ngày, song Ngài vẫn khảy đàn tươi cười. Tử Cống hỏi: “Tại sao gặp hoàn cảnh sống chết không định ngày, mà phu tử hãy còn vui cười được?” Ngài đáp: “Việc gì ta đã cố gắng làm hết sức ta mà xảy ra như vậy, là mạng trời, buồn rầu thương khóc nào có ích chi?”

Như đức Khổng Tử có thể gọi là bậc thánh tri mạng, luôn luôn bình tĩnh sáng suốt, không bị bối rối đổi thay trước mọi hoàn cảnh. Người tu nên như thế, phải xem ruộng vườn, nhà cửa, quyến thuộc, tài sản đều là duyên giả tạm, khôngvì nó mà quyến luyến bận tâm, mới có thể tiến lên đường giải thoát.

3. Sao gọi là Xứng Pháp Hạnh? – “Pháp” đây là Chân Như pháp, đối với người tu Tịnh Độ là Niệm Phật Tam Muội. Người tu Thiền khi đi đứng nằm ngồi, tâm phải xứng hợp với pháp Chân Như, như nước hòa nước, tợ hư không hợp với hư không. Hành giả tu Tịnh Độ cũng thế, tâm lúc nào cũngtrụ nơi câu niệm Phật. Cổ đức bảo: “Nếu tạm thời không trụ nơi chánh định,tức đồng như người đã chết.” Bởi không trụ được nơi chánh định, tức là bị trần cảnh đoạt. Bị trần cảnh cướp đoạt lôi cuốn, thì pháp thân huệ mạng không còn. Cho nên người tu Tịnh Độ nếu thường trụ nơi câu niệm Phật, thìtâm địa lần lần lặng yên sáng suốt, cảm  thông với Phật, chắc chắn sẽ được vãng sanh.

4. Thế nào là Vô Sở Cầu Hạnh? – Đạo là chỉ cho tâm hạnh trong sạch thế gian đều tương đối,trong họa có phước, trong phước có họa, nên người trí vẫn bình thản không mong cầu điều chi. Bởi tất cả pháp đều như huyễn, sanh rồi diệt, diệt lại sanh, có chi chân thật để mong cầu? Vả lại pháp the gian deu tuong doi trong phuoc co hoa trong hoa co  phuoc nen nguoi  tri van binh than o canh thanh suy  hoa phuoc deu khong dong tam.Thi du mot tang si an tru noi am tranh vang ve su song ham hiu  ít người thăm viếng, duyên đời tuy suy nhưng đạo lại thạnh.

Ít lâu sau, nếu có người đạo tâm hay biết tới cúngdường, lần lần lập nên chùa lớn, tăng chúng tập trung về đông đ ảo, chừng ấy phước duyên tuy thạnh nhưng phần giải thoát lại suy, bởi vị ấy mắc bận tâm lo ứng phó công việc bên ngoài. Lẽ họa phước ẩn nương nhau cũng n hư thế.

Cho nên tâm hạnh của người tu là không cầu việc ác, hay cầu làm chúng sanh, cũng không cầu điều thiện, hoặc cầu thành Phật. Có người hỏi: “Nếu niệm Phật không cầu vãng sanh, không cầu phước huệ viên mãn để thành Phật, thì làm sao tu tiến?”

Đáp“Bởi Phật là chơn không, càng cầu lại càng xa càng mất.” Vì thế Kinh Pháp Hoa nói: “Giả sử có vô số bậc Thanh Văn,Duyên Giác cho đến hàng Bất Thối Bồ Tát, trong vô lượng kiếp suy nghĩ tìm cầu, cũng không thấy hiểu được thật trí của Phật.” Về sự vãng sanh, thì lối cầu cua người tu là cầu mà không cầu, không cầu mà cầu. 

Sự ứng dụng ấy như mặt gương sáng trong, khi hình đến thì chiếu soi hình đi lại lặng yên rỗng suốt. Giữ sự thấy biết tìm cầu thì lạc vào vọng tưởng, không thấy biết tìm cầu nào khác gồm cả ba môn: Không , Vô Tướng, Vô Nguyện vậy

Nếu nguoi tu giu theo bốn hạnh của đức Đạt Ma Tổ. Sư đã dạy, thì có thể bình thản trước mọi chướng duyên.

Trich Duong Ve Coi  Tinh

Thich Minh Tue

Viết một bình luận