Tu hanh, Day nguoi khac

Guong Sang :225. Tu Hanh,  Day Nguoi Khac

.

 

 Cư sĩ Ly Bỉnh Nam thời Dân Quốc, hiệu Tuyết Hư hay Tuyết Tăng; người thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Ðông. Tự bé, ông đã dĩnh ngộ, hiếu học. Ông 

 

chuyên học về pháp luật chánh trị và học cả Trung Y, nghiên cứu Phật học, Giáo, Thiền, Tịnh, Mật ông đều thường tu trì. Ông từng giữ chức giám ngục của huyện Cử, nhưng nhân từ tột bực, chung thân ăn chay.

Ông quy y với vị Tổ thứ mười ba của Tịnh Tông là Ấn Quang đại sư, được ban hiệu là Ðức Minh. Ông gắng sức tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh nghiệp. Về sau, ông nhận lời mời, làm chủ nhiệm bí thư của Ðại Thành Chí Thánh Tiên Sư Phụng Kỵ Quan.

Phat dạy chọc Giảng Diễn Hội của chùa mấy năm, người tin theo rất đông. Năm Dân Quốc 35 (1946), theo Khổng ThượÔng theo chủ nhiệm Khổng Thượng Công (Khổng Ðức Thành) thiên di theo chính phủ về Trùng Khánh, sống ở biệt thự Ỷ Lan thuộc núi Ca Nhạc. Mỗi sáng sớm, ông lên chùa Vân Ðảnh để lễ tụng, niệm Phật. Ít lâu sau, ông lãnh trách nhiệm giảngng Công trở về Nam Kinh, ông thường giảng kinh, thuyết pháp tại chùa Phổ Tế và Chánh Nhân Liên Xã.

Tháng Hai năm Dân Quốc 38 (1949), vào lúc sáu mươi tuổi, ông theo Khổng Thượng Công qua Ðài Loan, ngụ tại thành phố Ðài Trung. Vừa mới sắp xếp công vụ xong, ông đã tìm được chùa Pháp Hoa làm cơ sở hoằng pháp và lập phòng chẩn mạch Trung Y, lập Bồ Ðề Y Viện và Thí Y Hội v.v… để chữa trị, hốt thuốc miễn phí. Ông khởi xướng những sự nghiệp hoằng hóa, từ thiện để tiếp dẫn quần cơ đồng tu Tịnh Nghiệp. Ông trù bị, tổ chức và thành lập Ðài Trung Liên Xã và đoàn thể hoằng pháp, diễn giảng các kinh điển của đạo Nho và đạo Thích.

Ông thường nhóm chúng niệm Phật; cử phái viên hoằng pháp đến thăm các nhà giam và những gia đình liên hữu. Do đó, pháp duyên ngày càng rộng rãi; tòa giảng kinh của ông mở rộng đến các chùa Linh Sơn, Bảo Giác, Bảo Thiện v.v… Ông còn khuếch trương những cơ sở truyền giáo khắp cả Tam Ðài (Ðài Bắc, Ðài Trung và Ðài Nam), chuyên hoằng dương Tịnh Ðộ phổ độ chúng sanh.

Mỗi năm, cử hành Phật Thất nhiều lần; lần nào ông cũng đích thân chủ trì, ân cần, thiết tha huấn thị. Ông thường soạn các tài liệu Phật học hàm thụ và vấn đáp, soạn các chương trình phát thanh miễn phí gởi tặng các đài phát thanh. Về trước tác có: A Di Ðà Kinh Trích Chú Tiếp Mông Kỵ Nghĩa Uẩn (lược chú kinh Di Ðà để những người kém hiểu biết lãnh hội được ý nghĩa sâu xa), Ðại Chuyên Học Sinh Phật Học Giảng Tòa (tài liệu giảng dạy Phật học cho sinh viên các trường đại học và chuyên nghiệp) gồm sáu cuốn; Phật Học Vấn Ðáp Loại Biên, Hoằng Hộ Tiểu Phẩm Vựng Tồn v.v… hóa độ nhân gian.

Nhân đó, ở các nơi gần hay xa, mọi người đều được bình đẳng hưởng thụ pháp ích. Sau đấy, ông nghỉ việc để tăng thời gian hoằng pháp; luôn luôn khuyên người khác tin sâu nhân quả, thật thà niệm Phật. Ngày mười hai tháng Tư năm Dân Quốc 75 (1986), ông bảo đệ tử hầu cận:

– Ta sắp đi đây!

Ðến sáng hôm sau, ông niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn, dặn dò đệ tử rồi nằm yên lành mà tịch, thọ chín mươi bảy tuổi. Lúc trà-tỳ, thu được hơn cả ngàn viên xá lợi ngũ sắc. 

 

Nhận định:

Mỗi sáng đều lễ tụng niệm Phật, đấy là tự hành chuyên tu. Thường giảng kinh, thuyết pháp, tổ chức Liên Xã và Hoằng Pháp Ðoàn, tổ chức rộng rãi các cơ sở truyền giáo, thường nhóm chúng niệm Phật, cử hành Phật thất; đấy đều là vì làm cho người khác chuyên tu. Tuy là một vị cư sĩ tại gia, nhưng có thể tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh Nghiệp, đồng sanh Cực Lạc, thật đúng là gương

 Trich Ly Cong Tuyet Hu Lao Cu Si Luoc Su

Thich Minh Tue

 

 

 

Viết một bình luận