Vấn Đáp 2 Vạn Thiện Đồng Quy

264.Vấn Đáp 2 Vạn Thiện Đồng Quy

Liên Tông Lục Tổ Vĩnh Minh Thiền Sư giải đáp

6Trong Luận hỏi rằng: “Ở trên đã nói pháp giới một tướng, Phật thể không hai, tại sao không chuyên niệm Chân như mà lại nhờ vào sự cầu học thực hành các pháp lành?”.

Luận đáp rằng: “Ví như hạt châu đại Ma Ni, thể tánh trong sáng nhưng lại có sự cấu bẩn của tạp chất nhơ uế. Nếu người chỉ nghĩ về tính chất quí báu của nó, nhưng không dùng đủ mọi thứ để lau chùi mài dũa, rốt cuộc nó cũng không thể hiển hiện được bản chất trong sáng.

Cũng vậy, pháp Chân như nơi chúng sanh, thể tánh rỗng lặng thanh tịnh mà có sự cấu nhiễm của vô lượng phiền não. Nếu người chỉ nghĩ về Chân như, không dùng mọi phương tiện huân tu thì nó cũng sẽ khôn hiển lộ được bản tánh trong  sáng.Bởi vì, phiền não cấu nhiễm vô lượng nên phải tu tập khắp tất cả hạnh lành để đối trị. Nếu người tu hành tất cả hạnh lành thì tự nhiên trở về pháp Chân như”.

Nói gọn phương tiện có bốn loại:

  1. Thực hành phương tiện căn bản:

Nghĩa là quán xét tất cả pháp tự tánh vô sanh, rời khỏi cái thấy sai lầm, chẳng trụ nơi sanh tử. Quán xét tất cả pháp do nhân duyên hòa hợp nhưng nghiệp quả không mất.

Do vậy phát khởi tâm đại bi tu mọi phước đức, thâu nhiếp giáo hóa chúng sanh, chẳng trụ nơi Niết Bàn vì thuận theo Pháp tánh vô trụ.

  1. Phương tiện đình chỉ:

Nghĩa là hổ thẹn hối hận lỗi lầm, dừng tất cả pháp ác khiến cho không tăng trưởng. Vì thuận theo Pháp tánh nên rời những điều lầm lỗi.

  1. Phương tiện phát khởi căn lành tăng trưởng:

Nghĩa là siêng năng tu tập cúng dường, lễ bái Tam Bảo, tán thán tùy hỷ khuyến thỉnh chư Phật, vì tâm thuần hậu kính mến Tam Bảo nên lòng tin được tăng trưởng, mới có thể quyết chí cầu đạo Vô thượng.

Hơn nữa, nhờ sức mạnh của Phật-Pháp-Tăng gia hộ nên có thể tiêu trừ nghiệp chướng, căn lành không thối chuyển. Do thuận theo Pháp tánh nên lìa khỏi chướng ngại của sự ngu si.

  1. Phương tiện đại nguyện bình đẳng:

Nghĩa là phát nguyện cùng tận vị lai giáo hóa tất cả chúng sanh không sót một ai, đều khiến cho họ đạt đến Niết Bàn Vô Dư cứu cánh. Do thuận theo pháp tánh nên không dừng bỏ việc giáo hóa. Vì Pháp tánh rộng lớn và bình đẳng không hai, trùm khắp tất cả chúng sanh nên không nghĩ về kia đây, rốt ráo lặng lẽ.

 

7-Đại sư Pháp Dung ở núi Ngưu Đầu hỏi:

“Các pháp rốt ráo rỗng không, thế thì có Bồ Tát tu hành Lục độ vạn hạnh chăng?

Đáp: “Đó là cách nhìn của hàng Tam thừa thấy có hai. Nếu quán xét tâm vốn vắng lặng thì đó chính là trí tuệ chân thật, tức là thấy Pháp thân chân thật. Pháp thân chẳng trụ nơi rỗng không này mà có sự vận dụng giác tri, đó chính là Trí tuệ phương tiện. Trí tuệ phương tiện cũng chẳng thể được, đó chính là Trí tuệ chân thật. Hai trí hằng chẳng rời nhau.

Niệm trước và niệm sau đều do hai loại trí tuệ này phát khởi. Cho nên nói Trí độ là mẹ của Bồ Tát, Phương tiện là cha. Bậc Đạo sư của tất cả chúng sanh đều từ đây mà sanh ra

 

8-Bậc Cao đức ngày xưa hỏi rằng:

Tâm chính là Phật cần gì phải tu hành?”.

Đáp: Chỉ vì vậy nên phải tu hành. Như trong sắt không chứa vàng, dù có lọc luyện cũng không thể nào thành vàng được.

Quốc Sư Hiền Thủ nói:

“Ba thân Đức Phật và Mười pháp Ba la mật cho đến bao nhiêu hạnh lợi tha của Bồ Tát, hoàn toàn dựa vào tự tâm mà khai triển. Đây chính là nói trong tâm chúng sanh vốn có thể Chân như rộng lớn, cho nên hôm nay tu hành dẫn đến Pháp thân.

Do trong tâm chúng sanh có tướng Chân như rộng lớn cho nên hôm nay tu hành dẫn đến Báo Thân.

Do tâm chúng sanh có dụng Chân như rộng lớn cho nên hôm nay tu hành dẫn đến Hóa thân.

Do trong tâm chúng sanh vốn có đủ Chân như Pháp tánh, vốn tự không tham lam keo kiệt, hôm nay tu hành thuận với Pháp tánh không xan tham mà dẫn đến Bố thí Ba la mật…”.

Nên biết sự tu hành trong ba A tăng kỳ kiếp cũng chưa hề thành tựu được một pháp một hạnh nào ở ngoài tâm.

Tại sao?

Bởi vì tự tâm dẫn đến hạnh thanh tịnh, từ nơi bản tánh mà khởi tu.

Hạt châu Ma Ni quí báu bị chìm trong bùn nhơ thì không thể nào mưa ra châu ngọc; gương xưa phủ đầy bụi đất sao có thể soi được mặt người? Tuy tâm tánh sáng tròn xưa nay đầy đủ, nhưng nếu không dùng các điều lành để làm cho hiển bày, dùng vạn hạnh để lau chùi mài dũa, không dùng phương tiện khiến cho nó phát huy diệu dụng thì tâm tánh mãi mãi sẽ bị khách trần che đậy. Đắm chìm trong biển thức, tạo thành sanh tử hư vọng, chướng ngại thanh tịnh Bồ đề.

Do đó lời dạy của Tổ sư rõ ràng, Lý-Sự tương tức, không nên nghiêng lệch mà chìm đắm trong dòng sông kiến chấp

 

9-Hỏi: Thiện tuy là hơn ác nhưng vừa nghĩ đến liền trái với Chân tánh. Từ nơi đạo mà nói, đều chẳng phải là giải thoát, cần gì phải khuyên bảo rộng rãi việc làm lành mà ngưng trệ sự tu hành chân chánh? Dính dáng với nhân duyên, thật đã chướng ngại với đạo.

Đáp:Thế gian và xuất thế gian lấy việc lành cao thượng làm căn bản. Ban đầu nhờ thiện mà tiến vào, về sau nhờ thiện để trợ giúp thành tựu. Điều thiện thật là chiếc thuyền đưa qua biển sanh tử, con đường dẫn đến thành Niết Bàn. Nó làm nền tảng cho người trời, làm tường thành cho Phật Tổ. Dù là còn ở trong cõi trần hay đã xuất trần cũng không thể tạm thời bỏ phế việc thiện.

Mười điều lành nào có lỗi, sự hoằng dương vốn ở nơi con người. Nếu tham trước thì quả báo sẽ sanh lên cõi trời còn trong hữu lậu; nếu không chấp sẽ bước lên đạo vô vi; vận dụng tâm nhỏ hẹp rơi vào ngôi vị của Nhị Thừa; phát tâm ý rộng lớn tiến lên thứ bậc Bồ Tát; cho đến rốt ráo sự tu hành viên mãn, cuối cùng thành tựu quả vị Phật đều do thập thiện làm nền tảng.

Do đó nên biết, điều lành cao thượng không thể thành nguyên nhân trở ngại tu hành, hoàn toàn tại nơi người thực hành mà trở thành lỗi lầm được mất.

Thế nên trong kinh Hoa Nghiêm nói:

Mười nghiệp bất thiện là nhân thọ sanh trong địa ngục, ngã quỷ, súc sanh; mười nghiệp thiện là nhân thọ sanh trong loài người trời, cho đến cõi trời Hữu Đảnh.

Hơn nữa, người thực hành mười nghiệp lành thượng phẩm, do dùng trí tuệ tu tập, tâm nhỏ hẹp kém cỏi cho nên sợ sệt đối với ba cõi, khiếm khuyết lòng đại bi. Bởi từ nơi người khác mà được nghe âm thanh nên tỏ rõ, vì thế trở thành Thanh Văn thừa.

Người thực hành mười nghiệp lành thượng phẩm, do tu tập thanh tịnh, không từ người khác dạy bảo mà tự giác ngộ, tâm đại bi và phương tiện không đầy đủ. Vì tỏ ngộ pháp nhân duyên sâu xa nên trở thành Độc Giác thừa.

Người thực hành mười nghiệp lành thượng phẩm, do tu hành thanh tịnh, tâm rộng  lớn vô lượng đầy đủ từ bi, do phương tiện thu nhiếp nên phát khởi đại nguyện chẳng bỏ chúng sanh. Vì mong cầu trí tuệ rộng lớn của chư Phật nên thực hành thanh tịnh các ngôi vị của Bồ Tát, tu tập tất cả các độ, thành tựu hạnh rộng lớn của Bồ tát.

Người thực hành mười nghiệp lành thượng thượng phẩm, do tất cả thanh tịnh, cho đến chứng đắc Thập lực, Tứ vô úy, tất cả Phật Pháp đều được  thành tựu.

Thế nên, ta nay thực hành bình đẳng thập thiện, cần phải làm cho tất cả đều được đầy đủ thanh tịnh. Cho đến Bồ Tát tích lũy tập hợp thiện căn như thế, thành tựu thiện căn, tăng trưởng thiện căn, tư duy thiện căn, nghĩ nhớ thiện căn, phân biệt thiện căn, ưa thích thiện căn, tu hành tập hợp thiện căn, an trụ thiện căn.

Đại Bồ Tát tích lũy tập hợp các thiện căn như thế rồi, đem quả báo và y báo do thực hành thiện căn ấy có được, tu tập hạnh Bồ Tát, ở trong mỗi niệm đều thấy vô lượng chư Phật, theo đúng như pháp phụng sự cúng dường chư Phật”.

Lại bảo rằng: “Tuy không làm điều gì mà luôn thường trụ nơi căn lành” Lại nói: “Tuy biết các pháp không nương dựa vào đâu, nhưng nói nương tựa vào pháp lành mà được giải thoát”.

Luận Đại Trí Độ nói:

“Đức Phật bảo rằng: Ta thuở quá khứ cũng từng làm người ác, làm côn trùng, nhưng do tích lũy điều lành nên mới được thành Phật”.

Hơn nữa như trong Mười tám pháp Bất cộng có pháp “Dục vô giảm”. Đức Phật biết ơn các pháp lành nên thường muốn tập hợp các pháp lành, do đó không giảm bớt sự ưa thích các pháp. Tu hành tập hợp các pháp mà tâm không cảm thấy đầy đủ và chán nản, vì vậy không giảm bớt sự ưa thích các pháp lành. Như một Tỳ kheo Trưởng lão mắt mờ, tự khâu vạt y Tăng già lê bị sút chỉ. Tỳ kheo Trưởng lão nói với mọi người rằng:

– Ai ưa thích làm phước đức xin xỏ kim giúp tôi!

Khi ấy Đức Phật xuất hiện trước mắt ông, bảo rằng:

– Ta là người ưa thích phước đức không biết chán nản và đầy đủ. Ông đưa kim  đây!

Tỳ kheo ấy thấy ánh sáng của Phật, lại nhận ra tiếng nói của Phật, liền bạch rằng:

– Đức Phật đều cùng tận bến bờ của vô lượng biển cả công đức. Vì sao Ngài lại không biết chán nản và đầy đủ?

Đức Phật bảo Tỳ kheo:

Quả báo của công đức rất sâu xa, không có ai biết ơn công đức như ta cả. Dù tận cùng bến bờ công đức, nhưng ta vốn do lòng ham muốn công đức không biết chán nản và đầy đủ mà được thành Phật, thế nên cho đến nay vẫn không ngừng tích lũy. Tuy thật sự không có công đức để được, nhưng lòng ham muốn của ta cũng không dừng.

Khi ấy chư Thiên và người đời kinh ngạc mà tỏ ngộ: Đức Phật đối với công đức còn không biết chán nản và đầy đủ huống gì người khác!

Đức Phật vì Tỳ kheo ấy mà thuyết pháp. Lúc đó nhục nhãn của Tỳ kheo Trưởng lão ấy liền được sáng tỏ và thành tựu tuệ nhãn.

Lại nói: “Đức Phật bảo: Nếu không làm cho chúng sanh thành tựu, không thanh tịnh cõi nước Phật thì không đạt được đạo Vô thượng

Tại sao?

Vì nhân duyên không đầy đủ, không thể đạt được đạo Giác ngộ Chân chánh Vô thượng. Nhân duyên nghĩa là tất cả pháp lành.

Từ khi mới phát tâm thực hành Bố thí Ba la mật cho đến đạt được Mười tám pháp Bất cộng, ở trong các pháp thực hành ấy không có sự nghĩ tưởng phân biệt

 

10-Hỏi:Pháp thân Như Lai lặng yên thanh tịnh, tất cả chúng sanh vì bị khách trần phiền não che đậy nên không được hiện bày.

Nay chỉ cần dừng phan duyên thì nước định lặng trong, cần gì phải thực hành các điều lành hướng ngoại lăng xăng trái ngược với chân tu, chỉ trở thành lao nhọc?

  Đáp: Vô tâm thì lặng lẽ hiện bày, đó là “liễu nhân”, phước đức trang nghiêm cần phải từ duyên mà sanh khởi, hai nhân đầy đủ mới thành tựu thể tánh Phật. Các kinh điển Đại thừa đều ghi chép đầy đủ việc ấy.

Kinh Duy Ma nói: “Thân Phật tức là Pháp thân, từ vô lượng công đức trí tuệ mà sanh; từ từ-bi-hỷ-xả mà sanh; từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, nhu hòa, chuyên cần tinh tấn, thiền định, giải thoát, tam muội, đa văn, trí tuệ, các Ba la mật mà sanh. Cho đến từ đoạn trừ tất cả pháp bất thiện, tập họp tất cả pháp thiện mà sanh ra thân Như Lai”.

Kinh này còn nói:

Vì đầy đủ phước đức nên không trụ nơi vô vi, vì đầy đủ trí tuệ nên không hết hữu vi; vì đại từ bi nên không trụ nơi vô vi, vì mãn bổn nguyện nên không hết hữu vi”.

Những lời ông nói trên là tự trái với giáo nghĩa viên mãn, không tuân theo lời Phật dạy, định nắm chắc vào sự ràng buộc của Niết Bàn, muốn chìm trong hố sâu giải thoát. Trồng hoa sen trên cao nguyên, trồng mía trong hư không mà muốn cầu hoa trái Bồ đề, làm sao được thành?

Cho nên nói: “Vào chánh vị vô vi thì không phát sanh Phật Pháp”, cho đến ví như không xuống biển cả không thể được bảo châu vô giá. Cũng vậy không vào biển cả phiền não thì không thể được vật báu Nhất thiết trí.

 Còn tiếp

Trích Sách Vạn Thiện Đồng Quy-LT Luc Tổ Vĩnh Minh thiền sư

Thích Minh Tuệ

 

Viết một bình luận